Những năm gần đây, tình hình tội phạm diễn ra ngày một phổ biến và tinh vi hơn. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp Tòa án đều áp dụng các khung hình phạt như nhau mà còn phải cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự (TNHS). Vậy thế nào là “tình tiết giảm nhẹ trong vụ án hình sự”, cùng tham khảo bài tư vấn sau.
1. Khái niệm tình tiết giảm nhẹ
Tình tiết là những sự kiện, dữ liệu. tình huống, diễn biến, hành vi…của một người trong suốt quá trình thực hiện hành vi.
Các tình tiết giảm nhẹ TNHS là những dấu hiệu mang tính chủ quan và khách quan của hành vi phạm tội, không là dấu hiệu định tội hoặc định khung được quy định trong bộ luật hình sự và khi tồn tại, chúng làm giảm tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện và của người phạm tội.
2. Các tình tiết giảm nhẹ được ghi nhận trong Bộ luật Hình sự
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Cụ thể:
- Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm.
Ngăn chặn tác hại của tội phạm là khi người phạm tội có ý thức tự mình làm giảm bớt sự nguy hiểm của tội phạm hoặc có ý thức ngăn chặn trong quá trình thực hiện tội phạm.
- Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
Người phạm tội phải tự nguyện (không do ép buộc, cưỡng chế) hoặc do người khác tác động (khuyên bảo) hay theo yêu cầu của người bị thiệt hại sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả. Ngoài ra còn có những trường hợp khác được quy định tại mục 1.1 Nghị quyết 01/2006 NQ-HĐTP.
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
Động cơ gây thiệt hại trong trường hợp này vượt quá giới hạn mà pháp luật cho phép, nên khi người phạm tội phạm tội này cũng được xem là tình tiết giảm nhẹ.
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
Người phạm tôi có hành vi vượt quá các dấu hiệu của tình thế cấp cấp thiết được quy định tại Điều 23 Bộ luật Hình sự 2015.
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
Động cơ gây thiệt hại ở đây là động cơ tích cực, muốn bắt giữ người phạm tội nên trường hợp gây thiệt hại do vượt quá mức cần thiết này được giảm nhẹ TNHS.
- Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
Trường hợp được giảm nhẹ liên quan đến phản ứng do bị kích động, người phạm tội không làm chủ được hành vi do nạn nhân đã có hành vi trái pháp luật trước đó.
Người phạm tội chỉ được giảm nhẹ trong trường hợp sự kích động của họ do chính nạn nhân tạo ra, còn trong trường hợp do người khác gây ra thì không được giảm nhẹ TNHS.
- Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
Chỉ áp dụng tình tiết này khi có đầy đủ hai điều kiện “phải do hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà phạm tội” và “Hoàn cảnh đặc biệt khó khăn không phải do người phạm tội tự gây ra”.
- Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
Người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội chưa gây ra thiệt hại gì, hoặc đã gây ra thiệt hại nhưng thiệt hại gây ra không lớn. Hậu quả cho thấy tính nguy hiểm cho xã hội không cao nên được xem là tình tiết giảm nhẹ TNHS.
- Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
Phạm tội lần đầu là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào. Ngoài ra, chỉ áp dụng đối với các trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 9 Bộ luật Hình sự 2015.
- Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
Bị người khác đe doạ được hiểu là bị người khác dọa trừng phạt nếu làm trái ý họ, tạo cho người phạm tội nỗi lo sợ về một tai hoạ có thể xảy ra, và để tránh tai hoạ đó người phạm tội đã phải thực hiện tội phạm.
Bị người khác cưỡng bức là bị người khác dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác buộc người phạm tội đã phải thực hiện tội phạm.
- Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
Người phạm tội bị hạn chế khả năng nhận thức do nguyên nhân khách quan.
- Phạm tội do lạc hậu;
Trường hợp này, do sự hạn chế về mặt nhận thức do trình độ lạc hậu, thấp kém, đi chậm so với tiến trình phát triển chung của xã hội.
- Người phạm tội là phụ nữ có thai;
Phụ nữ đang mang thai có sự thay đổi về mặt tâm sinh lý. Điều này thể hiện sự nhân đạo của pháp luật.
- Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
Trường hợp này chỉ áp dụng với người già – người được xác định là người từ 70 tuổi trở lên.
- Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
Chính sách nhân đạo của Nhà nước đối với người khuyết tật là một yếu tố quyết định việc giảm nhẹ TNHS cho người khuyết tật khi họ phạm tội.
- Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
Chỉ áp dụng tình tiết này khi có đầy đủ cả hai điều kiện “người phạm tội phải có bệnh” và “bệnh đó là nguyên nhân là nguyên nhân làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của người phạm tội”
- Người phạm tội tự thú;
Người phạm tội tự mình nhận tội và khai ra hành vi phạm tội của mình, trước khi bị phát hiện. Người nào bị bắt, bị phát hiện về một hành vi phạm tội cụ thể, nhưng trong quá trình điều tra tự mình nhận tội và khai ra những hành vi phạm tội khác của mình mà chưa bị phát hiện, thì cũng được coi là tự thú.
- Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải;
Người phạm tội trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã khai đầy đủ và đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện, thể hiện sự cắn rứt, dày vò lương tâm về tội lỗi của mình
- Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều tra tội phạm;
Người phạm tội có thái độ chủ động, giúp đỡ nhằm tạo ra những sự biến đổi, thay đổi nhanh hơn trong việc phát hiện và điều tra tội phạm. Cung cấp những thông tin, tài liệu, bằng chứng có ý nghĩa thiết thực cho việc phát hiện và điều tra tội phạm
- Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
Sau khi thực hiện tội phạm cho đến trước khi bị xét xử, người phạm tội không những ăn năn hối cải, tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm do họ thực hiện, mà họ còn giúp đỡ các cơ quan có thẩm quyền phát hiện, ngăn chặn các tội phạm khác, tham gia phát hiện tội phạm, bắt kẻ phạm tội, có hành động thể hiện sự quên mình vì lợi ích chung… được cơ quan có thẩm quyền khen thưởng hoặc chứng nhận.
- Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
Người được tặng thưởng huân chương, huy chương, bằng khen, bằng lao động sáng tạo hoặc có sáng chế phát minh có giá trị lớn hoặc nhiều năm được công nhận là chiến sỹ thi đua…quy định tại Nghị quyết 01/2000 NQ – HĐTP.
- Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng.
Người phạm tội có vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột là người có công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng danh hiệu vinh dự;
Là thương binh hoặc có người thân thích như vợ, chồng, cha, mẹ, con (con đẻ hoặc con nuôi), anh, chị, em ruột là liệt sỹ;
Là người tàn tật do bị tai nạn trong lao động hoặc trong công tác, có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên.
Lưu ý:
Khi xét xử, tuỳ từng trường hợp cụ thể và hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội mà còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án.
3. Trường hợp vừa có tình tiết giảm nhẹ, vừa có tình tiết tăng nặng
Trong trường hợp người phạm tội vừa có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ, Tòa án sẽ đánh giá mức độ tương đương của các tình tiết này để quyết định mức án tương ứng. Cụ thể:
- Lượng tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ tương đương nhau hoặc xét tính chất của tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ tương đương nhau, có thể triệt tiêu nhau thì tiến hành xử phạt người phạm tội theo mức án tuyên trong trường hợp thông thường.
- Lượng tình tiết tăng nặng nhiều hơn tình tiết giảm nhẹ hoặc xét tính chất của tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ thấy có cơ sở để tăng nặng TNHS thì tiến hành xử phạt người phạm tội theo mức án tuyên trong trường hợp đã tăng nặng TNHS.
- Lượng tình tiết tăng nặng ít hơn tình tiết giảm nhẹ hoặc xét tính chất của tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ thấy có cơ sở để giảm nhẹ TNHS thì tiến hành xử phạt người phạm tội theo mức án tuyên trong trường hợp đã giảm nhẹ TNHS.
Trên thực tế, không có văn bản quy định cụ thể về hướng giải quyết trong trường hợp này. Vậy nên, cơ sở để xác định sự tương đương về tính chất giữa các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ TNHS không rõ ràng, chủ yếu dựa vào sự xem xét chủ quan của Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án.
4. Vai trò của tình tiết giảm nhẹ
Về bản chất, tình tiết giảm nhẹ TNHS là những biểu hiện về các điều kiện, hoàn cảnh, tình huống có ảnh hưởng đến việc thực hiện tội phạm, qua đó phản ánh mức độ nguy hiểm ít hơn của hành vi phạm tội. Theo đó, tình tiết giảm nhẹ có vai trò sau:
- Là một trong các căn cứ để Tòa án xem xét khi ra quyết định hình phạt, giúp cho việc quyết định hình phạt phù hợp với tính chất mức độ nguy hiểm của từng tội phạm.
- Giúp nhìn nhận đúng bản chất tội phạm, khả năng cải tạo, giáo dục tội phạm;
- Thể hiện tính khách quan, mềm dẻo, linh hoạt trong quá trình giải quyết vụ án, ra quyết định hình phạt;
- Phản ảnh chính sách nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội.
- Trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS, HĐXX có thể xem xét, đưa ra quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất hoặc chuyển sang một hình phạt khác nhẹ hơn.
Trên đây là những tư vấn của chúng tôi về “những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự gồm những gì?”. Nếu Quý bạn đọc còn bất cứ thắc mắc, điểm chưa rõ hoặc cần hỗ trợ trong quá trình tố tụng, hãy liên hệ ngay đến Công ty Luật Long Phan PMT để được tư vấn, giúp đỡ kịp thời và hiệu quả. Trân trọng!
Bài viết nói về: Những tình tiết giảm nhẹ trong vụ án hình sự
Nguồn trích dẫn từ:Luật Long Phan PMT
Tác giả:Hà Ngọc Tuyền
January 01, 2020 at 01:00PM
0 comments
Đăng nhận xét