Bồi thường khi hợp đồng vô hiệu là một hình thức cụ thể của trách nhiệm dân sự. Trên thực tế việc xác định có phát sinh hậu quả hay không vẫn còn nhiều tranh cãi, do đó qua bài viết dưới đây chúng tôi sẽ phân tích chi tiết về vấn đề này hoạt động khi nào.
1. Cơ chế xác định bồi thường thiệt hại theo quy định hiện hành?
Về nguyên tắc của pháp luật dân sự tại Điều 13 BLDS 2015, bất kỳ cá nhân, hay pháp nhân có quyền dân sự bị xâm phạm được bồi thường toàn bộ thiệt hại, người gây thiệt hại thì phải bồi thường, chỉ trừ trường hợp các bên có thỏa thuận riêng và luật có quy định khác.
Do đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được dựa trên ba căn cứ:
- Một bên vi phạm trách nhiệm, nghĩa vụ. Theo đó, họ phải có trách nhiệm cung cấp thông tin trung thực, thiện chí và thực hiện nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, họ đã không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ đối với bên kia.
- Có phát sinh thiệt hại trên thực tế, bao gồm: một là, thiệt hại vật chất là thiệt hại về tài sản, có thể tính được bằng tiền như chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, thu nhập thực tế bị mấtp; hai là, thiệt hại tinh thần như tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe danh dự, nhân phẩm và lợi ích nhân thân khác.
- Hành vi vi phạm ấy là nguyên nhân dẫn đến hậu quả phát sinh thiệt hại. Nếu như giữa hành vi vi phạm và thiệt hại không có mối quan hệ nhân quả thì người có lỗi không có trách nhiệm phải bồi thường cho bên bị vi phạm. Do đó, hành vi vi phạm phải là yếu tố thiết yếu, then chốt gây ra hậu quả thiệt hại trên thực tế.
2. Khái niệm Hợp đồng vô hiệu? Hậu quả pháp lý?
Theo (Khoản 1 Điều 407 BLDS 2015), hợp đồng vô hiệu (hủy bỏ, chấm dứt) dẫn đến các bên không đạt mong muốn khi tiến hành giao kết hợp đồng, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên đã xác lập hợp đồng.
BLDS hiện hành quy định các trường hợp cụ thể giao dịch dân sự vô hiệu như:
- Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều kiện có hiệu lực được quy định tại Điều 122 dẫn chiếu đến Điều 117 BLDS 2015.
- Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật và trái đạo đức xã hội được quy định tại Điều 123.
- Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo được quy định tại Điều 124 BLDS. Nội dung này có nghĩa các bên xác lập giao dịch tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực pháp luật.
- Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện được quy định tại Điều 125.
- Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn theo quy định tại Điều 126.
- Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép theo quy định tại Điều 127.
- Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình theo quy định tại Điều 128.
- Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm quy định về hình thức theo quy định tại Điều 129.
Một giao dịch dân sự bị Tòa án tuyên bố vô hiệu, bên cạnh việc không phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên còn dẫn đến hệ quả pháp lý được quy định tại Điều 131 BLDS như các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.
Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do BLDS và luật khác quy định. Trường hợp một bên có lỗi dẫn đến giao dịch dân sự vô hiệu và làm phát sinh thiệt hại thì phải bồi thường cho bên kia. Cơ chế xác định bồi thường được phân tích như phần trên.
3. Cơ chế giải quyết tranh chấp theo quy định hiện nay
Hiện nay, Tòa án là cơ quan chuyên trách giải quyết các tranh chấp phát sinh từ giao dịch dân sự. Theo đó, một bên có thể khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu và yêu cầu bên kia bồi thường thiệt hại phát sinh trên thực tế.
Tuy nhiên, đối với các hợp đồng dân sự liên quan đến hoạt động thương mại sẽ được điều chỉnh bởi Luật Thương mại 2005. Do đó, cơ chế giải quyết tranh chấp đối với hoạt động thương mại bao gồm các bên tự thương lượng, hòa giải giữa các bên, giải quyết tại Trọng tài hoặc Tòa án.
Thương lượng là phương pháp đầu tiên và hữu hiệu khi phát sinh tranh chấp. Trên thực tiễn, phần lớn các tranh chấp đều được các thương nhân ưu tiên áp dụng bởi có thể tiết kiệm được thời gian, công sức và kinh phí, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ thương mại.
Phương pháp hòa giải thương mại được ghi nhận tại khoản 2 Điều 317 Luật Thương mại 2005 và được Chính phủ ban hành Nghị định 22/2014/NĐ-CP về hướng dẫn hoạt động hòa giải thương mại tại Việt Nam. Theo quy định tại Điều 11 Nghị định này, thì hòa giải thương mại được lựa chọn khi các bên thỏa thuận, được xác lập dưới hình thức điều khoản hòa giải trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng, tuy nhiên thỏa thuận này phải được xác lập bằng văn bản.
Giải quyết bằng Trọng tài Thương mại. Theo Luật Trọng tài thương mại 2010 thì Trọng tài có thẩm quyền giải quyết trong các trường hợp sau theo quy định tại Điều 2 bao gồm tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài.
Tuy nhiên, theo khoản 1 Điều 5 và Điều 18 Luật này thì điều kiện đủ là các bên phải thỏa thuận tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài, không tính tới thời điểm thỏa thuận.
Cuối cùng, Tòa án vẫn có thẩm quyền giải quyết đối với các hợp đồng phát sinh từ giao dịch dân sự, kể cả hoạt động thương mại. Theo đó, một bên có quyền nộp đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người bị kiện cư trú hoặc đặt trụ sở cùng tài liệu, chứng cứ. Yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đã giao kết vô hiệu và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu thiệt hại phát sinh do hành vi có lỗi của bên kia.
Như vậy, hợp đồng có hiệu lực khi thỏa mãn các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và không thuộc trường hợp vô hiệu theo luật. Khi hợp đồng vô hiệu sẽ không phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên từ thời điểm giao kết, tuy nhiên bên có lỗi dẫn đến hợp đồng vô hiệu phải bồi thường. Bên bị vi phạm có quyền thương lượng, hòa giải hoặc nộp đơn khởi kiện tại Trọng tài, Tòa án để bảo vệ quyền lợi của mình.
Trên đây là nội dung tư vấn giải đáp của chúng tôi .Trường hợp Quý khách hàng có bất cứ thắc mắc về nội dung bài viết hay cần hỗ trợ pháp luật, vui lòng liên hệ Công ty Luật Long Phan PMT qua thông tin bên dưới để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời. Xin cảm ơn!
Có thể bạn quan tâm:
Bài viết nói về: Bồi thường thiệt hại khi hợp đồng vô hiệu khi nào?
Nguồn trích dẫn từ:Luật Long Phan PMT
Tác giả:Võ Thiện Hiển
February 12, 2020 at 10:00AM
0 comments
Đăng nhận xét